Thác Bạc- Thác Tình Yêu

Thác Bạc – Thác Tình yêu thu hút du khách bởi một vẻ đẹp tráng lệ, kiêu sa. Dưới ánh mặt trời lớp đá của dòng nước trong tinh khiết ấy hiện lên một màu vàng kỳ lạ, hấp dẫn đến diệu kỳ. Từ trên cao gần một trăm mét, thác đổ xuống mang theo hơi lạnh đến run người, những giọt nước trắng xóa tung ra từ đỉnh thác tạo thành màn sương mỏng che khuất những tán cây rừng, tất cả tạo nên một bức anh thơ mộng, hữu tình. 

 

                                             Du khách thỏa sức bơi lôi dưới Thác Tình Yêu

1. Vị trí & hướng di chuyển

Thác Bạc và thác Tình yêu là hai con thác lớn nổi tiếng thuộc xã San Sả Hồ, huyện Sapa. Từ thị trấn Sapa, du khách có thể chọn loại xe như taxi, ô tô 7 đến 16 chỗ ngồ hoặc lựa chọn xe máy hướng về phía Tây khoảng 12 km là tới khu du lịch Thác Bạc. Thác Tình Yêu cách đó 2 km. Trên cung đường này, du khách được thưởng ngoạn vẻ kỳ vĩ của đèo Ô Quý Hồ – một trong tứ đại đèo của Việt Nam.

  1. Vẻ đẹp hấp dẫn

Thác Bạc với độ cao 200m đổ xuống và tung bọt trắng xóa như những đám mây bồng bềnh trên cao. Chính vì những đám bọt trắng xóa đó mà người dân nơi đây đã đặt tên cho con thác là Thác Bạc. Dưới ánh mặt trời, Thác Bạc lấp lánh dát bạc như vẻ đẹp rực rỡ của thiếu nữ người dân tộc, rồi không gian rừng núi rực sắc hoa, tiếng chim hót líu lo như một bộ xiêm y hoàn hảo của người thiếu nữ ấy. Đặc biệt, khi du khách đứng từ trên đỉnh núi Hàm Rồng có thể ngắm vẻ đẹp hoang sơ của Thác Bạc một cách rõ nét nhất, khung cảnh mây trời thiên nhiên hòa vào nhau tạo nên một không gian huyền ảo như lạc vào chốn tiên cảnh tuyệt đẹp. Đồng thời, đây cũng là nơi lý tưởng nhất để bạn được trầm mình dưới làn nước mát lạnh và hòa mình trong không gian mênh mông của rừng núi hoang sơ tĩnh mịch.

Thác Tình Yêu cũng là một địa điểm hấp dẫn khách du lịch khi họ đến với Sapa.Trước khi đến với Thác Tình Yêu thì du khách sẽ được khám phá vẻ đẹp của khu rừng nguyên sinh, bao quanh bởi bạt ngàn những tán trúc già rêu phong, trầm mặc. Cảnh đẹp tựa bức tranh sơn thủy, thoảng bên tai là âm thanh xào xạc, thì thầm của rừng già khiến du khách có thể thả hồn mình theo thiên nhiên. Nhìn từ xa, dòng thác như hình chiếc nón lấp lánh dưới ánh mặt trời. Với độ cao gần 100m, bắt nguồn từ đỉnh Phan-xi-păng, thác Tình yêu đem theo hơi lạnh của núi rừng, chảy suốt ngày đêm, đổ xối xả xuống dòng suối Vàng, như bản trường ca của đại ngàn.

Con suối Vàng dưới chân thác óng ánh. bắt nguồn từ đỉnh Fansipan nghiêng mình uốn lượn, hai bên bờ là thảm cỏ xanh mượt, trải dài những bụi trúc gai… tạo nên bức tranh tuyệt đẹp. Màu vàng của rêu và của đá tạo nên màu đặc trưng của suối nên được gọi là Suối Vàng.

                                        Suối Vàng uốn mình uốn mình dưới thác Tình Yêu

Đặc biệt, Thác Tình Yêu nằm giữa Vườn Quốc gia Hoàng Liên với khu hệ thực vật độc đáo. Nếu đến vào mùa hè khoảng tháng 3-5, du khách được ngắm nhìn các loài hoa Đỗ quyên thi nhau đua sắc, khoe hương.

                                                                                            Đỗ quyên hoa bông nở rộ cạnh thác Tình Yêu

Bên cạnh đó, hệ thống đường bậc phục vụ du khách đi bộ trong rừng được làm từ đá tự nhiên hết sức công phu, tỉ mỉ đem lại cho du khách sự thư giãn giữa thiên nhiên, núi rừng.

Lầu vọng cảnh ở độ cao 1.900 m – lầu cao nhất Việt Nam cùng chuông đồng cũng là điểm đặc biệt thu hút với du khách khi đến Thác Tình Yêu.

Có thể nói, thác Bạc và Thác Tình yêu chính là một phần hơi thở, là vẻ đẹp tinh khôi mà bất tận của Sapa. Khi đến đây, chắc chắn du khách sẽ say mê, chìm đắm trong khung cảnh lãng mạn, thơ mộng mà không kém phần hoang sơ, huyền bí.

3. Thời gian, phương tiện, ẩm thực và giá vé

  • Tổng thời gian tham quan là: 4 tiếng bao gồm (20 phút di chuyển từ thị trấn đến Thác Bạc, 1h tham quan thác Bạc, 10 phút di chuyển đển Thác Tình Yêu, 2h tham quan thác Tình Yêu với chiều dài đường đi bộ 1,1 km, 30 phút di chuyển về thị trấn Sa Pa).
  • Điểm dừng ăn trưa/tối: Nhà hàng tại Thác Bạc, Nhà hàng Song Nhi…
  • Lựa chọn ẩm thực: Đồ nướng (thịt cuốn cải mèo, thịt cuốn nấm, trứng, khoai, ngô, chim cút, cơm lam…), Cá Tầm, Cá Hồi (lẩu, gỏi, nướng, canh chua).
  • Phương tiện: taxi, ô tô, xe máy….có thể thuê từ thị trấn.
  • Vé tham quan: + Thác Bạc: giá  20.000 đồng/người – giá  với người từ 16 tuổi trở lên và giá 10.000 đồng áp dụng cho trẻ từ 7 tuổi. + Thác Tình Yêu: giá  70.000 đồng/người – giá  với người từ 16 tuổi trở lên, dưới 16 tuổi giá 30.000 đồng, trẻ dưới 6 tuổi được miễn phí.

Người Tày

Sau dân tộc H’Mông và dân tộc Dao, dân tộc Tày là dân tộc có số dân đông thứ ba ở Sa Pa. Có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, tộc người này là một trong những nhánh tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Nhóm ngôn ngữ này kéo dài thành một vệt từ miền Nam Trung Quốc đến Việt Bắc,Tây Bắc của Việt Nam, sang Lào, Thái Lan qua Mianma, thậm chí đến tận Ấn Độ cũng có một nhóm tộc người San, thuộc ngữ hệ Tày-Thái. Ở Sa Pa họ sống tập trung ở một số xã phía Nam như Bản Hồ, Nậm Sài, Thanh Phú là vùng thung lũng bằng phẳng, màu mỡ nhiều sông suối, nơi thuận tiện đánh bắt cá và làm ruộng.

Đặc điểm kinh tế: Nguồn sống chính của người Tày là nông nghiệp, ruộng nước. Nền nông nghiệp Tày đã phát triển tương đối cao. Ngoài lúa nước là cây lương thực chính, đồng bào còn trồng thêm ngô, khoai, sắn và các loại cây thực phẩm khác và thuốc lá trên những nương định canh. Đó cũng là nguồn thu nhập quan trọng của đồng bào Tày. Việc trồng bông dệt vải và nuôi tằm từ lâu đã phát triển, không những đáp ứng nhu cầu của từng gia đình, mà còn được bán ở những chợ tại địa phương. Ngoài ra, đồng bào còn chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà, dê trở thành nguồn thu nhập phụ có giá trị kinh tế cao.Các nghề thủ công gia đình như đan lát đồ dùng gia đình bằng mây, tre, lá; rèn công cụ, nghề mộc và nghề gốm, đã đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương.

Tổ chức cộng đồng: Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Đồng bào Tày thường sống quần tụ thành từng bản. Mỗi bản có từ hai mươi đến một trăm nóc nhà. Nhiều bản hợp lại thành một mường tương đương với một xã. Bản (làng) của người Tày được xây dựng ở những chân núi hoặc những nơi đất đai bằng phẳng ven sông, suối, trên các cánh đồng. Nhiều bản làng) có lũy tre xanh bao bọc xung quanh. Tính cộng đồng của bản (làng) xưa kia đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống, đã để lại những thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc Tày…

Hôn nhân gia đình: Gia đình người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn. Đã từ lâu không còn tục ở rể.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Thờ cúng: Người Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Họ thường dùng bữa sau 2 giờ chiều và 8 giờ tối. Trong tôn giáo của người Tày, ngày 3/3 âm lịch là ngày tảo mộ, ngày lễ quan trọng nhất của người Tày.

Văn hóa: Hát then, hát lượn, hát sli được dùng vào các mục đính sinh hoạt khác nhau, các thể loại dân ca nổi tiếng của ngườiTày. Bộ nhạc cụ như Đàn tính, Lúc lắc. Những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Phổ biến là loại nhà đất 3 gian, 2 mái (không có chái), tường trình đất hoặc thưng phên nứa, gỗ xung quanh, mái lợp cỏ tranh, ngói âm dương hoặc tấm Prôximăng. Bố trí mặt bằng sinh hoạt được quy định thống nhất qua từng vị trí trong ngôi nhà. Người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ, có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang (Trung Quốc). Những yếu tố tích cực được thể hiện trong văn học – nghệ thuật dân gian. Trước hết đó là loại truyện cổ thường đề cập đến nguồn gốc của những hiện tượng tự nhiên, xã hội, lịch sử, tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn những người đã có công với làng xóm, quê hương, đất nước, và nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau, hoặc lên án những bất công trong xã hội đương thời. Nhiều truyện cổ, ca dao, dân ca, nêu cao vai trò của lao động, ngợi ca nhân nghĩa, lòng chung thủy và đề cao tài năng, trí tuệ của con người.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăm tết từ ngày 28 tháng chạp âm lịch. Những ngày này trai gái trong bản lại khẩn trương trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho gian nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 người Tày bắt đầu làm thịt lợn và chế biến ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn..Nếu ngày này ai đó có dịp đến với vùng cao sẽ thấy nhà nào cũng treo những dây lạp sườn trong bếp trông thật hấp dẫn. Đến ngày 30 tết thì người Tày cất tất cả những đồ dùng trong nhà như: Dao, dựa, cày, bừa vào một nơi rồi làm lễ cúng để cho chúng nghi ngơi ăn Tết, vì theo đồng bào nơi đây những vật dụng đó đã gắn bó và theo người dân suốt một năm. Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Chuẩn bị đón tết còn là dịp cho trai, gái trong bản rủ nhau xuống chợ mua sắm cho mình những bộ quần áo mới nhất để đi chơi xuân. Ngày tết cũng là cơ hội để cho cả người già, trẻ em, thanh niên nam nữ kéo nhau đi xem các lễ hội vui xuân như: Tung còn, múa xòe và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lượn thật hay thật tình tứ.

Trang phục: Có đặc trưng riêng về phong cách thẩm mỹ. Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như ngườiThái ở Mai Châu (Hoà Bình).

Trang phục nam: Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải (7 cái) và hai túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam giới mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.

Trang phục nữ: Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót phía trong áo dài. Vì vậy người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với ngườiNùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có eo. Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; đó là loại quần về nguyên tắc cắt may giống nam giới kích thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu ‘mỏ quạ’ của người Kinh. Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích… Có nơi còn đeo túi vải. Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối tạo dáng là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm. Riêng nhóm Pa dí (Lào Cai) có phong cách tạo dáng và trang trí khá độc đáo ở lối đội khăn và y phục.

Những điều kiêng kị: Có những điều kiêng kị như không đặt chân lên khúc củi đang cháy trong bếp lửa hay đặt chân lên thành bếp. Những người đi đám ma về chưa tắm rửa sạch sẽ không được nhìn vào gia súc, gia cầm. Người mới sinh con không được đến chỗ thờ tổ tiên. Khi đun nấu đồng bào Tày đều chú ý đặt quai ninh, chảo, nồi lên bếp không được để hai quai nồi, chảo theo hướng cây xà ngang (vì đó là hướng nằm của người chết) mà phải đặt theo hướng đòn nóc nhà. Người Tày nơi giáp cửa sổ gia chủ đặt hai chén con có ý giành cho tổ tiên về tiếp khách, khách không ngồi ở vị trí đó. Trong cuộc sống thường ngày, con cái có nhỡ đánh rơi vỡ bát hay chén, người lớn không dám đánh chửi con mà chỉ nhẹ nhàng: “Nào, thế là mình được bát chén mới rồi!” vì đánh chửi con sợ phạm vào giờ “xích khẩu”. Trong cuộc sống vợ chồng rất ít cãi nhau, hoặc đánh chửi, do vậy tình trạng ly hôn rất hiếm. Cũng có trường hợp, vợ chồng, con cái do nhiều yếu tố dẫn đến xích mích cao độ dám chửi thề sẽ dẫn tới gia đình lục đục, làm ăn mùa màng thất bát, ốm đau triền miên, hao tài tốn của. Lẽ đương nhiên, nếu gia đình không hòa thuận thì sẽ ông chằng bà chuộc, chẳng ai nghe ai, ốm đau tự đến, vật nuôi, của Người Tày rất kiêng nói to, va đập mạnh, chửi nhau nơi khuôn bếp để đun nấu. Vì họ coi khuôn bếp là nơi có Vua bếp, Táo quân, là ngưỡng cửa dẫn đến Ngọc Hoàng. Vì sợ bị “xích khẩu” (Pác vàm) nên từ già chí trẻ luôn khuyên nhau nói năng nhẹ nhàng, từ tốn trên dưới, bớt giận làm lành. Từ xưa đã lưu truyền câu: “Mười nước dồn thành nước hẵng trôi”, “Mười lần dồn một lần hẵng giận” (Sếp nặm sỏn hắt nặm Coòi luây, Sếp pày sỏn hắt pày Coòi náu). Trong bản, một người gặp ốm đau, hoạn nạn thì cả bản Mường cùng biết, cùng lo giúp đỡ. Đó là đạo nghĩa xóm giềng đã có từ ngàn xưa. Còn những người hay chửi bới,. Nếu chẳng may lúc cả giận đã chửi thề nguyền thì khi ốm đau hoạn nạn, những loại thuốc thông thường chữa không khỏi được là phải nhờ thầy tạo đến giải lời nguyền. Bị nhẹ thì làm lễ cởi nút (kẻ khót).

Người mông

H’mông là một dân tộc có dân số tương đối đông (trên 9 triệu người), cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong đó đông nhất là ở Trung Quốc (khoảng 7,5 triệu người). Ở Việt Nam, người H’mông có trên 80 vạn, ở Lào – khoảng 25 vạn, ở Thái Lan – 15 vạn… Trong vài ba thập niên gần đây, người H’mông còn có mặt ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ, Canada, Úc …

Ở nước ta, người H’mông nằm trong nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ H’mông – Dao (gồm ba dân tộc: H’mông, Dao và Pà Thẻn). Trước năm 1979, họ được gọi là người Mèo. Ở Trung Quốc, người H’mông được gọi là người Miêu. Ở Lào gọi là người Mẹo. Hiện nay, ngoài Trung Quốc, còn ở hầu hết các nước trên thế giới, họ đều được gọi làH’mông.

Dân tộc H’mông là một dân tộc sinh sống đông nhất ở Sa Pa, chiếm khoảng 53% dân số. Trước đây họ là tộc người làm lúa nước rất giỏi, sống dọc theo khu vực sông Dương Tử (Trung Quốc), trong một cuộc xung đột với tộc người Hán, phần đông họ di cư về phía Nam và chia thành nhiều nhóm nhỏ. Những tộc người H’Mông đầu tiên đến Sapa thì tập trung chủ yếu ở dãy Hoàng Liên từ khoảng 300 năm trước.

Sống nơi núi non hiểm trở, thiếu đất đai màu mỡ nhưng với kinh nghiệm trồng lúa nước từ xa xưa, người H’mông đã san đắp những sườn núi, sườn đồi thành những thửa ruộng bậc thang độc đáo, mỗi năm có thể trồng được hai vụ lúa hoặc hai vụ ngô. Du khách có dịp lên Sa Pa vào mùa thu, lúc lúa chín rộ sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy vô số ruộng bậc thang từ thấp lên cao, vàng óng quanh co uốn lượn dọc theo sườn núi. Có thể nói đó là một trong những cảnh quan đẹp nhất vùng núi cao Tây Bắc.

Khoảng vài chục năm trước, người H’Mông có thói quen đốt rừng, phát hoang để làm ruộng rẫy và sống du canh du cư. Nhưng nay thì thói quen này đã chấm dứt và được Nhà Nước giao rừng, giao đất để tự quản, sinh sống, rừng Sa Pa cũng hồi sinh, ruộng nương rộng lớn, trù phú và xanh tốt.

Tộc người H’Mông sinh sống chủ yếu ở Sa Pa là người H’Mông Đen do quần áo của họ toàn màu đen nhưng trang phục của họ lại khác hẳn người H’Mông Đen ở nơi khác, vì thế thường được gọi là người H’Mông Sa Pa.

Người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen (màu chàm) giống nhau, áo cánh ngắn tay bên ngoài khoác áo không tay kiểu như áo gilê có vạt dài quá mông. Trên đầu đội một cái mũ bé tí, tròn, nông, ôm lấy đỉnh đầu trông như cái mũ của Giáo hoàng, có chiếc đen tuyền, có chiếc còn viền một vòng thêu thổ cẩm. Mũ của đám con trai còn được khâu thêm vào các dải vải màu hoặc các đồng tiền lủng lẳng. Người phụ nữ cũng mặc đồ đen, trên đầu cũng đội một chiếc khăn đen, vành thẳng đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác không có tay, vạt dài gần tới gối như của đàn ông. Chiếc áo khoác này được lăn ép bằng sáp ong vì thế có màu đen ánh bạc. Để giữ gìn, nhiều khi người ta mặc lộn mặt trái có màu trắng ra ngoài. Đặc biệt nhất là phụ nữ H’Mông Sa Pa lại mặc quần ngắn ngang đầu gối chứ không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng một băng vải hẹp.

Ở Sa Pa bản làng người H’mông sinh sống đông nhất là Cát Cát – San Sả Hồ cách thị trấn Sa Pa 2 Km, Sa Pả, Lao Chải, Séo Mí Tỷ, và Tả Giàng Phình. Đến đấy du khách có thể trực tiếp thấy cách sinh hoạt hằng ngày của họ, cùng thưởng thức món thắng cố, tiết canh gà, rượu ngô, nhái nấu măng, bánh ngô và món đậu xị… độc đáo.

Người H’mông có đời sống văn nghệ khá phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ…Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình, đó là Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống)… mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội.

Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào (đón năm mới), những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.

Người Giáy

Dân tộc Giáy là một nhánh của nhóm các dân tộc Tày – Thái, sống chủ yếu ở các vùng núi cực Bắc. Tổng số người Giáy ở Việt Nam chỉ có trên 25 ngàn và ở Sa Pa họ chỉ chiếm 2%, tập trung ở các bản quanh thung lũng Tả Van, Lao Chả. Cũng như người Tày, Nùng, Thái, người Giáy canh tác trên các mảnh ruộng bằng phẳng trồng lúa tẻ. Trước kia mỗi năm chỉ làm một vụ. Sau ngày tết, họ tổ chức lễ hội xuống đồng gọi là “Gióng Pooc” vào ngày Thìn tháng Giêng để cầu mong một năm trồng cây tốt lành

Đặc điểm kinh tế: Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thường cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Đồng bào nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyền thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ. NgườiGiáy nổi tiếng nghề thủ công như đan lát, đóng đồ gỗ, làm bàn ghế trúc, làm gạch nung vôi, chưng cất dầu hồi.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.

Hôn nhân gia đình: Theo phong tục Giáy, trong các gia đình vị thế nổi bật là người chồng, người cha. Con cái lấy họ theo cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin, sau lễ cưới, cô dâu về ở cùng gia đình nhà chồng, tuy vậy việc ở rể cũng là phổ biến. Trước kia người Giáy có tục “kéo vợ”. Đó là trường hợp cô gái và gia đình cô ta đồng ý nhưng nhà trai không đủ tiền của để cưới hỏi đường hoàng, chàng trai phải tổ chức “kéo vợ”.

Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đỏ, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giờ trong việc đám ma của chính người đó.

Nhà cửa: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhóm Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào Cai,Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn học dân gian thì người Giáy vốn ở nhà sàn. Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thờ tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quay ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thường đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.

Văn hóa, văn nghệ: Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao, phong giao, v.v… Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn. Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là “vươn” hay “phướn” hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn…

Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để “đánh dấu”. Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũng có tục kéo vợ như người Hmông.

Trong đám cưới người Giáy, trao dâu là nghi thức quan trọng khi nhà gái đi đưa dâu đến nhà trai và đã đến lúc chuẩn bị ra về. Các bài hát trao dâu nói lên tình cảm của cha mẹ, anh chị em, họ hàng đối với cô dâu khi về nhà chồng. Đó cũng là những lời dặn dò, khuyên răn cô dâu khi về sống ở gia đình nhà chồng. Người Giáy quan niệm làm dâu là một việc khó. Chính vì thế, các lời hát trong nghi thức trao dâu thực chất là những lời tâm sự, dạy bảo chân thành của mọi người đối với cô dâu. Những lời dạy bảo này sẽ giúp cô dâu ứng xử tốt hơn với họ hàngnhà chồng, nhất là bố mẹ và anh em của chú rể. Hát trao dâu trong đám cướingười Giáy là một phong tục đẹp, vẫn được duy trì đến ngày nay. Những lời hát cũng được bổ sung ngày càng phong phú, thiết thực hơn đối với những cô dâu trẻ khi bước chân về nhà chồng. Đám cưới (Cưn láu) là một trong những ngày hội vui nhất của người Giáy. Họ quan niệm, Cưn láu càng lớn, càng đông vui thì hạnh phúc của đôi trai gái càng được bền lâu và thiêng liêng hơn. Và trong các đám cưới người Giáy thường bao giờ cũng có các cuộc hát đối đáp giữa trai gái của bản làng này với trai gái của bản làng khác đến dự đám cưới. Các cuộc hát đối đáp này thường được bắt đầu vào chập tối và có khi kéo dài đến tận ngày hôm sau, đêm hôm sau. Ngoài ra trong các nghi thức lễ cưới đều có kèm theo các bài hát như hát đón dâu, hát đưa dâu, hát rửa mặt, hát trước mâm trước rượu, hát đạo lý, hát khuyên răn, hát cám ơn.

Ma chay: Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo… Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.

Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.

Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ…. Hàng năm vào ngày Thìn tháng Giêng âm lịch người Giáy ở Tả Van (huyện Sa Pa – Lào Cai) lại mở hội Roòng Poọc để cầu mùa màng bội thu, người yên vật thịnh, mưa thuận, gió hoà. Tại lễ hội, lễ vật trên bàn cúng bao gồm: Đĩa hoa quả, bánh kẹo, năm bát xôi màu xanh, đỏ, tím, phỏng gạo bốn bát, hai nắm xôi trắng nắm ý nghĩa vị thần mang theo trên đường đi. Bên cạnh có bát nước trong có đồng xu tượng trưng sự sung túc về tiền bạc. Cạnh bát hương là 5 chén nước chè, 9 chén rượu và 9 quả trứng màu xanh, đỏ, trắng tượng trưng cho màu trang phục của 9 nàng theo hầu vị thần. Ngoài ra còn có trang sức dành cho các nàng hầu như khuyên tai, vòng đeo tay, đeo cổ. Bên cạnh bát nước là quả Còn để ném vòng nhật nguyệt. Một con lợn con, một con gà, con vịt sống để gầm bàn lễ khi nào già bản khấn cúng xong dâng lên vị thần (hiến tế) với ý nghĩa cảm ơn vị thần đã cho dân bản nhiều gia súc. Trên ghế vị thần ngồi bên trái có gánh củi, ý nghĩa trên đường đi vị thần và người hầu có củi để nấu ăn và sưởi. Bên phải có gánh cỏ, ý nghĩa để trên đường đi ngựa của vị thần có cỏ để ăn. Trên ghế ngồi của vị thần có trải chăn màu đỏ vì theo dân tộc Giáy màu đỏ là màu may mắn. Sau khi chuẩn bị các lễ vật xong thầy cúng khấn cúng, đọc tên các lễ vật và xin vị thần bản phù hộ cho dân bản một mùa bội thu, gia súc đầy chuồng, làm được của ăn của để. Lễ cúng xong thì thầy cúng sẽ đưa quả Còn cho những người già uy tín trong bản ném vòng Nhật Nguyệt treo ở độ cao 30m. Trong ngày làm lễ cúng phải ném thủng vòng Nhật Nguyệt, vì người Giáy quan niệm rằng nếu vòng Nhật Nguyệt không được ném thủng thì cả năm đó bản sẽ đen đủi. Khi vòng Nhật Nguyệt được ném thủng thì từng gia đình đến bàn thờ chính để thắp hương vái lạy thần linh, cầu may mắn cho gia đình và làng bản. Tham gia lễ hội là tất cả già trẻ, lớn bé trong bản. Người Giáy cũng rất cởi mở khi đón tiếp bạn bè các dân tộc anh em đến xem và chia vui. Sau phần lễ (cúng tế) là đến phần hội. Nhiều trò chơi dân gian diễn ra rất vui, trong đó đặc biệt là có cuộc thi tài cày ruộng của những chàng trai. Mở đầu là trò chơi ném còn. Những người cao tuổi (nam một bên, nữ một bên) lấy 6 quả còn cùng ném tượng trưng 3 lần khai mạc, rồi sau đó mọi người vào cuộc chơi. Những quả còn tua xanh đỏ vun vút lao lên phông còn.Tiếng xuýt xoa hò reo cổ vũ rền vang. Phông còn bị ném thủng là báo hiệu cho một năm mùa màng tươi tốt. Cùng với ném còn là chơi kéo co. Tốp nam đứng phía đông cầm phần gốc dây song (dây kéo co).Tốp nữ đứng phía tây cầm phần ngọn. Hồi trống kèn nổi nên thùc giục.Bên nam (đằng đông tượng trưng cho dương, mặt trời) luôn kéo thắng. Bên nữ (tượng trưng cho âm) giả vờ thua. Và như vậy, năm đó cả làng sẽ được mùa. Lễ hội Roòng Poọc (xuống đồng) của người Giáylà sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người, làm mỗi người trong cộng đồng nơi đây biết trân trọng giá trị của lịch sử (ghi nhớ công lao người mở đất lập bản), biết trân trọng thiên nhiên (tâm linh tôn trọng các thế lực siêu nhiên, biết yêu thương cỏ cây, tài nguyên đất và nước), biết yêu thương con người (giao lưu, đồng cảm, đoàn kết). Vì vậy, lễ hội này vừa có nét đẹp văn hoá cổ truyền, vừa phù hợp với điều kiện cuộc sống hiện đại mà ta vẫn kỳ vọng là sự phát triển bền vững. Ngoài ra, lễ hội còn thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước, là nguồn tài nguyên nhân văn để tiếp tục phát triển kinh tế du lịch nơi vùng đất huyền thoại Mường Hoa-Sa Pa. Tuy vốn là lễ hội dân tộc truyền thống của người Giáy ở Tả Van, nhưng nhiều năm nay đã lan rộng, trở thành lễ hội chung của cả vùng thung lũng Mường Hoa. Từ sáng sớm, làn sương còn giăng mù mịt từng đoàn người tíu tít nói cười trong mây, hồ hởi về dự hội. Người Mông từ Hầu Thào, Lao Chải dồn xuống, người Dao từ Bản Hồ, Bản Phùngngược lên, du khách từ thị trấn du lịch SaPa cũng tới dự làm cho lễ hội đông vui tới vài nghìn người.

Trang phục: Trang phục Giáy được chọn chủ yếu là ở trang phục nữ với loại áo ngắn xẻ nách viền cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở nước ta (phía bắc) có mặc loại áo xẻ nách (thường là áo dài), số áo ngắn loại này không nhiều như Nùng… Tuy nhiên đây là loại áo với kỹ thuật “xẻ nách” và phong cách trang trí ở đường viền cổ, tuy không cầu kỳ nhưng là một sắc thái riêng cho loại áo này về kỹ thuật và mỹ thuật.

Trang phục nam: Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng, cài cúc vải. Áo thường có ba túi, hai túi dưới, một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Nam mặc quần ống đứng (rộng 35 – 40 cm), cạp to bản, không dũng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây nam giới thường quấn khăn trên đầu. Có nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.

Trang phục nữ: Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo ngắn xẻ nách. Đây là loại áo ngắn trùm kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng. Cổ áo đường viền xẻ nách từ vai trái sang phải được viền và trang trí vải khác màu (thường là tương phản với nền áo) cũng như ở hai vai, giữa cánh tay và cửa tay. Cũng có loại áo như trên nhưng lại để chàm hoặc trắng nguyên không trang trí. Aáo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Áo xẻ nách cài cúc vải được tết cẩn thận với nhiều loại đẹp mắt. Phụ nữ Giáy thường đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lao Cai, Lai Châu mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc vấn theo kiểu vành khăn và thường đeo túi vải thêu hoa văn phổ biến ở đáy túi là hình răng chó. Phổ biến đi loại giày vải thêu hoa văn nhiều loại.

Một số điều kiêng kỵ:

Khi đến bản làng: Hàng năm các nghi lễ chung cúng thần làng, xua đuổi ma ác của đồng bào Giáy. Khi cúng đồng bào đặt các dấu hiệu kiêng kỵ cấm người lạ vào làng như buộc chùm lá xanh ở cột cao trên đường vào làng hoặc đan phên mắt cáo, buộc vào đó xương hàm lợn, trâu, bò. Cả làng không ai đi làm, không cho người lạ vào làng. Nếu người lạ vô tình gồng gánh, đội nón, che ô, đeo gùi, ba lô… vào làng sẽ bị phạt bằng cách nộp đủ số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Trường hợp có việc khẩn cấp , muốn vào làng ngay, khách lạ phải bỏ mũ, ba lô, gồng gánh … tất cả đồ đạc đều phải xách tay. Như vậy mới mong được giảm hoặc miễn phạt.

Mỗi làng đều có khu rừng cấm, thờ thế lực siêu nhiên. Nơi thờ cúng có thể ở gốc cây to, hòn đá lớn ở trong rừng. Rừng cấm là khu rừng chung của cả làng . Mọi người tự nguyện bảo vệ rừng , không ai được tự tiện chặt phá, phóng uế, trai gái không được phép đến nơi đó tâm tình.

Khi vào thăm nhà: Trước khi vào thăm nhà đồng bào các dân tộc, du khách cần quan sát kỹ, nếu thấy ở trước cửa nhà, ở đầu cầu thang cắm hoặc treo một cành lá xanh, một cành gai hoặc cắm một tấm phên đan hình mắt cáo… Đó là những dấu hiệu kiêng cấm, gia đình không muốn người lạ vào nhà.

Ở vị trí quan trọng nhất trong nhà (vách nhà ở gian giữa hoặc góc đầu nhà sàn, là nơi thờ tổ tiên. Nơi thờ tổ tiên là chốn linh thiêng nhất, khách không dược đặt mũ, nón, tư trang và đồ dùng khác ở nơi đó, không được sờ tay lên các đồ thờ cúng . Khi ngồi không được quay lưng vào nơi thờ.

Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là nơi tiếp khách của đồng thời là nơi thiêng liêng thờ vua bếp, thần lửa. Do đó có nhiều kiêng kị liên quan đến bếp lửa, ngồi cạnh bếp lửa sưởi không đặt chân lên hoặc làm xê địch hòn đá kê làm kiềng , vì theo quan niệm thì các hòn đá này là nơi trú ngụ của thần lửa . Khi đun nấu đồng bào Giáy đều chú ý đặt quay ninh, chảo, nồi lên bếp không được để hai quay nồi , chảo theo hương cây xà ngang (vì đó là hướng nằm của người chết) mà phải đặt theo hướng đòn nóc nhà. Khi ngồi gần bếp , du khách không quay lưng và giẫm chân vào bếp.

Trong ngôi nhà đồng bào các dân tộc cửa và cây cột chính cũng là vị trí linh thiêng thờ thần cửa, thần cột cái. Vì vậy không nên ngồi bậu cửa hoặc treo mũ nón và tựa lưng vào cột cái. Đồng bào kiêng không huýt sáo ở trong nhà, vì nó là tín hiệu gọi ma tà, bão giông.

Giao tiếp sinh hoạt :

Chào hỏi: Khi đến nhà, đi đường, khách cần chủ động chào hỏi bằng thái độ chân thành, nụ cười thật thà sẽ xoá đi mặc cảm bất đồng ngôn ngữ. Khi chia tay có thể bắt tay, không cần nói lời tạm biệt, hẹn gặp lại nhưng luôn nở nụ cười.

Khi ăn uống: Mỗi dân tộc có quan niện khác nhau về vị trí chỗ ngồi , vì vậy cần lưu ý không ngồi vào một số vị trí đặc biệt như: ở vùng người Giáy phía dãy ghế ở gần bàn thờ dành riêng cho người cao tuổi nhất, khách quý nhát.  Trước khi ăn uống cần kiên trì nghe gia chủ tién hành các nghi lễ mời tổ tiên, chúc tụng các điều tốt lành. Khách không rót rượu trước, không gắp thức ăn trước, khi dùng xong tuyệt đối không úp chén, úp bát xuống mâm.

Khi ngủ: Mỗi căn nhà đều có chỗ ngủ dành riêng cho khách, nên cần tuân theo sự bố trí của gia chủ, không nằm để chân về phía bàn thờ.

Người Dao đỏ

Người Dao đỏ có dân số đứng thứ hai sau người Mông tại.  Họ cũng có nguồn gốc từ Vân Nam – Trung Quốc, người Dao Đỏ là một bộ phận nhỏ của tộc người Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 40 của thế kỷ trước. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối Thầu, Trung Chải.

Theo các nhà nghiên cứu thì người Dao có quan hệ mật thiết với người H’mông. Trước đây hai nhóm này được cho là có cùng nguồn gốc nhưng mỗi nhóm có một đặc điểm riêng biệt. Trong khoảng thời gian thiên di từ Trung Hoa vào Việt Nam thì hai cộng đồng dân tộc này đã hình thành nên những đặc điểm khác nhau. Ngày nay đến Sa Pa thì bạn có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt trong hình dáng, trang phục, cách sinh hoạt nhưng họ vẫn chung sống trong một cộng đồng.

 Nếu người H’Mông thường chọn những nơi núi cao để sống thì người Dao lại chọn thung lũng hoặc lưng chừng núi để trỉa ngô, trồng lúa và thảo quả. Các lái buôn thường đến tận nhà thu mua mang bán sang Trung Quốc nên cuộc sống của họ được nâng cao. Nhiều nhà có những tiện nghi và phương tiện tốt như xe máy, tivi, thậm chí là cả ô tô, máy kéo dùng trong nông nghiệp.

Tộc người Dao có nhiều nhóm nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ bởi phụ nữ thường quấn khăn hay đội mũ đỏ, áo xanh đen có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, vạt và tà áo. Trang phục của họ được xem là đẹp nhất ở mỗi phiên chợ Sa Pa. Người phụ nữ còn có tục cạo chân mày và một phần tóc phía trên trán cho đẹp. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ cổ của Hán ngữ gọi là chữ Nôm – Dao nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc hiểu và viết được.

Người Dao có tín ngưỡng rằng loài chó là tổ tiên của họ nên chó luôn luôn được quý trọng, người đàn ông thì chỉ được coi là trưởng thành khi đã chịu lễ cấp sắc. Ngoài ra họ cũng có nhiều tục lệ đặc biệt như là gia đình nào đang nấu rượu thì phải cắm lá trước cửa nhà, không cho người lạ vào vì đồng bào quan niệm rằng người lạ vào nhà rượu sẽ bị chua và khê, nên khi thấy có dấu hiệu cắm lá kiêng bạn không nên bước vào nhà. Trong gia đình có phụ nữ sinh nở cũng có dấu hiệu kiêng cắm lá trước cửa nhà, để không cho người lạ vào nhà, sợ đứa trẻ mới sinh khóc nhiều.

Họ cũng có tục kiêng sờ đầu trẻ em, khi cắt tóc, cạo đầu họ vẫn để chỏm tóc ở đỉnh đầu vì cho đó là nơi trú ngụ các hồn vía con người, quan niệm để chỏm tóc như vậy trẻ em sẽ không hay ốm đau. Họ cũng quan niệm là nam và nữ khi chưa kết hôn thì không được chụp ảnh cùng nhau vì như vậy là không tốt, có thể nói đó là một điều cấm kỵ đối với phụ nữ Dao. Người cầm máy ảnh nếu muốn chụp tốt nhất là nên xin phép họ trước.

Trong năm người Dao cũng có những lễ hội đặc sắc như là Tết nhảy tổ chức vào ngày mồng một và mồng hai tháng giêng, hội hát giao duyên vào ngày mồng mười tháng giêng ở bản Tả Phìn, một bản nhỏ của người Dao và người H’Mông cách thị trấn Sa Pa khoảng 12 km. Bản này nổi tiếng với các loại thổ cẩm đủ kiểu dáng và sắc màu do bàn tay khéo léo tài hoa của người phụ nữ H’Mông, Dao tạo nên và đặc biệt là bài thuốc tắm lá cây rừng của tổ tiên người Dao Đỏ còn truyền lại đến ngày nay rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi.

 

Cộng đồng dân cư sinh sống trong VQG Hoàng Liên

Trong khu vực Vườn quốc gia Hoàng Liên (vùng đệm và vùng lõi) có khoảng hơn 3.000 hộ dân và phân bố trên 154 thôn bản, trong đó có 05 thôn, bản hiện nằm sâu trong vùng lõi và 21 thôn nằm ở giáp ranh giới Vườn quốc gia. Đây là nơi sinh sống của 08 dân tộc anh em, trong đó dân tộc HMông chiếm khoảng 37,6% (phần lớn đang sinh sống ở các xã thuộc huyện Sa Pa), người Thái chiếm 36,4% (tập trung chủ yếu ở huyện Tân Uyên), người Dao chiếm 6,5%, số còn lại là các dân tộc như: Tày, Dáy, Khơ Mú, Lào, Kinh (người Kinh tập trung chủ yếu ở huyện Tân Uyên, tới đây theo chương trình khai hoang phát triển kinh tế miền núi và di dân tự do). Cụ thể như sau:

 

Bảng 01. Thống kê các thôn nằm trong vùng lõi và ven rừng Hoàng Liên (địa bàn Tỉnh Lào Cai)

 

STT XÃ, THÔN
A Các Xã, thôn nằm trong vùng lõi
I Xã Bản Hồ
1 Thôn Séo Trung Hồ
2 Thôn Ma Quái Hồ
3 Thôn Tả Trung Hồ
II Xã Tả Tả Van
1 Thôn Séo Mý Tỷ
2 Thôn Dền Thàng
B Các xã, thôn nằm ven VQG.
I Xã Bản Hồ
1 Thôn Nâm Toóng
2 Thôn Bản Dền
3 Thôn La Ve
4 Thôn Hoàng Liên
II Xã Tả Van
1 Thôn Tả Van Giáy 1
2 Thôn Tả Van Giáy 2
3 Thôn Tả Chải Mông
4 Thôn Tả Chải Dao
5 Tả Van Mông
III Xã Lao Chải
1 Thôn Lý Lao Chải
2 Thôn Hàng Lao Chải
3 Thôn Lồ Lao Chải
4 Thôn San I
5 Thôn San II
IV Xã San Sả Hồ
1 Thôn Sín Chải A
2 Thôn Sín Chải B
3 Thôn Cát Cát
4 Thôn Ý Lình Hồ 1
5 Thôn Ý Lình Hồ 2
  Tổng cộng (24 thôn)
 

Riêng 5 thôn bản nằm trong vùng lõi (Séo Mý Tỷ, Dền Thàng, Tả Trung Hồ, Séo Trung Hồ, Ma Quái Hồ) là nơi sinh sống chủ yếu của 03 dân tộc thiểu số, trong đó người Hmông chiếm 73,8% và người Dao chiếm 17,4% và dân tộc Dáy chiếm 8,8%. Phân bố dân cư trên các thôn bản không tập trung ở một khu vực cố định mà sống rải rác trên khắp các quả đồi của thôn nên việc tuyên truyền phổ biến giáo dục nhận thức của người gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại, tiếp xúc trao đổi, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và quản lý bảo vệ rừng.

Điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của người dân địa phương còn đang gặp rất nhiều khó khăn, đời sống của họ còn phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên rừng. Việc phát triển kinh tế hoàn toàn vào nông nghiệp thô sơ như trồng lúa nước, canh tác nương rẫy, trồng Thảo quả, chăn thả tự do và một bộ phận nhỏ nhờ vào du lịch (homestay, hướng dẫn, poster, bán hàng…). Diện tích trồng cây nông nghiệp trong vùng ít, đất xấu, phân bố rải rác, đất trồng màu thì thường phân bố ở xa khu dân cư và thường bám vào các khu rừng phục hồi. Hiện tại canh tác lúa nước trong vùng chủ yếu là 1 vụ hè thu do khả năng cung cấp nước cho sản xuất bị hạn chế, nhất là vào mùa khô và thời tiết quá lạnh. Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của các hộ gia đình, như một hình thức dự trữ của cải, khi cần tiền họ có thể bán đi. Các loài gia cầm, Lợn và Dê được nuôi chủ yếu để lấy thịt, còn đối với Trâu và Ngựa được sử dụng cày kéo.

Khu vực VQG Hoàng Liên có cảnh quan núi non hùng vĩ, khí hậu mát mẻ, cùng và là nơi sinh sống của nhiều đồng bào các dân tộc ít người với nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc như hoạt động ca múa nhạc của người Mông, Dao, Giáy với những nhạc cụ: khèn, sáo, kèn, đàn môi; các kiến trúc nhà ở của người dân tộc, ẩm thực, lễ hội…Đây chính là thế mạnh đã góp phần gây dựng nên sự nổi tiếng của một khu du lịch đầy tiềm năng như VQG Hoàng Liên. Tại đây, du khách có thể tham gia và các hoạt động du lịch văn hóa – sinh thái thú vị.